Một nghiên cứu mới cho hay, hầu hết người Mỹ trưởng thành chấp nhận chịu đựng trầm cảm, không nhận điều trị.
Sau khi sàng lọc dữ liệu khảo sát của hơn 46.000 người, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra có đến 8% bị trầm cảm, nhưng chỉ một phần ba trong số đó được điều trị các rối loạn cảm xúc.
Lý do cho việc này rất đa dạng. Tiến sĩ Mark Olfson trưởng nhóm nghiên cứu chia sẻ: “Một số người trưởng thành trải qua những triệu chứng trầm uất không thừa nhận đây là căn bệnh nghiêm trọng và cần được chăm sóc y tế, hoặc không tin các phương án điều trị có thể giúp cải thiện tình hình”.
Olfson, giáo sư tâm thần học thuộc Cao đẳng Y dược và Phẫu thuật, Đại học Columbia tại New York cho biết với những người khác, sự kỳ thị hay xấu hổ cản trở mong muốn được nhận sự trợ giúp chuyên nghiệp. Một số trường hợp khác thường bỏ qua việc đi đến phòng khám chuyên khoa để được định hướng về các vấn đề y tế cấp thiết, và có cơ hội khám lâm sàng chẩn đoán trầm cảm.
Khảo sát cũng phát hiện ra rằng một số bệnh nhân được kê đơn thuốc chống trầm cảm quá liều. Tuy nhiên, phần trăm những người rơi vào phần này không thể xác định từ dữ liệu nghiên cứu.
Một số bệnh nhân ở các dạng trầm cảm nhẹ và dễ nhận biết có thể yêu cầu kê đơn và sử dụng thuốc chống trầm cảm, dù có bằng chứng cho thấy các loại thuốc này có ít hay thậm chí không có tác dụng trong điều trị trầm cảm nhẹ.
Olfson cũng lưu ý rằng: “mặc dù một số người Mỹ coi thuốc chống trầm cảm là thứ đáng kỳ thị, song những người khác lại coi chúng là lựa chọn nâng cao phúc lợi cá nhân và xã hội, và “cung cấp những lợi ích vượt xa các tác dụng đã được chứng minh lâm sàng”.
Đồng thời, có bác sĩ đôi khi vẫn tục cho bệnh nhân sử dụng thuốc trầm cảm ngay cả trên những người không có tiền sử trầm cảm nặng “thậm chí kéo dài vài năm sau khi chứng trầm cảm đã được chữa khỏi”.
Olfson và các đồng sự của mình đã phát hiện ra rằng trong số khảo sát bệnh nhân được điều trị trầm cảm, dựa trên kết quả sàng lọc có 30% trong số đó mắc trầm cảm và 22% phải chịu đựng nỗi thống khổ tâm lý nghiêm trọng.
Phương án điều trị trầm cảm phổ biến nhất là thuốc chống trầm cảm và trị liệu tâm lý. Nghiên cứu cho thấy, bệnh nhân trầm cảm có nhiều khả năng được các bác sĩ chăm sóc chuyên khoa điều trị, còn những bệnh nhân suy sụp tâm lý nghiêm trọng có thể được các bác sĩ tâm thần điều trị.
Olfson cho biết: “Tuy nhiên, hơn một nửa người Mỹ mang trong mình nỗi thống khổ tâm lý nghiêm trọng không đến gặp các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần hay các chuyên gia sức khỏe tâm thần khác”.
Những bệnh nhân có Medicare và Medicaid (cả 2 đều là chương trình trợ cấp tài chính y tế, giống như bảo hiểm sức khỏe, của chính phủ Hoa Kỳ) có nhiều khả năng được điều trị trầm cảm hơn, trong khi những bệnh nhân không có bảo hiểm thì ít có khả năng được điều trị.
Một chuyên gia cho hay những phát hiện trên làm nổi bật các thiếu sót trong việc chẩn đoán và điều trị trầm cảm.
Simon Rego, trưởng khoa tâm lý học tại trung tâm y tế Montefiore/Đại học y Albert Einstein, New York cho biết: “Bất chấp những nỗ lực hết mình, thì chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phải đi để thu hẹp khoảng cách giữa các phương pháp điều trị trầm cảm dựa trên bằng chứng và những người cần nó nhất, nghiên cứu mới cung cấp dữ liệu có thể giúp thu hẹp khoảng cách này.
“Ví dụ, chúng ta nên điều chỉnh các nỗ lực can thiệp bằng cách tập trung vào việc tăng cường tích hợp các dịch vụ sức khỏe tâm thần vào bảo hiểm y tế. Điều này sẽ giúp cải thiện khả năng tiếp cận chăm sóc đối với những người có hoàn cảnh khó khăn, cũng như cải thiện nhận thức về các lựa chọn điều trị.”
Nghiên cứu được công bố vào 29 tháng 8 trên tạp chí JAMA Internal Medicine. Các nhà nghiên cứu lưu ý, cuộc điều tra này dựa vào các thông tin mang tính chủ quan nên đôi khi có thể không chính xác.